Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhTrang Chính  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
413 Số bài - 23%
290 Số bài - 16%
163 Số bài - 9%
156 Số bài - 9%
152 Số bài - 8%
139 Số bài - 8%
138 Số bài - 8%
130 Số bài - 7%
124 Số bài - 7%
112 Số bài - 6%

|

Vợ Nhặt-Kim Lân-PT Từ A-Z.

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Sun Feb 28, 2010 3:17 pm
key_touch_sky
key_touch_sky
Admin

Posts Posts : 106
Points Points : 224
Thanked Thanked : 1
Join date Join date : 16/02/2010

Posts Posts : 106
Points Points : 224
Thanked Thanked : 1
Join date Join date : 16/02/2010

Bài gửiTiêu đề: Vợ Nhặt-Kim Lân-PT Từ A-Z.

Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở
làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.Do hoàn cảnh
gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm.
Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông
được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật”.
Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”, ”Cô
Vịa”…) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể hiện được không khí tiêu
điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của
người nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc
đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (đánh vật,chọi
gà,thả chim…). Các truyện: ”Đôi chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”…
kể lại một cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện một
phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng _những người
sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau
Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên
về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam _mảng hiện thực mà từ
lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng”
(tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 1962). Trong
cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim
Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết
về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một
người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà văn
một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của
cuộc sống nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK
Văn học 12)

Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân
luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi
vào lòng người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim
Lân đã thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm
thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và
khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời
Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung của những ngừơi nông dân
trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ , tạo nên sự đồng cảm
và suy nghĩ trong lòng người đọc .

Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc.Chuyện dựng vợ
gả chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời người,thế mà Kim lân lại dùng
hình ảnh “Vợ Nhặt”,một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn
nhân trong cái bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân
Ất Dậu 1945,một trong những thời kỳ đen tối trong lịch sử.Kim Lân đã
thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng,mù mờ của một buổi tối chiều
“chạng vạng”.Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con
người “xanh xám như những bóng ma”,”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”,”những
cái thây nằm cong queo bên đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực
thẳm giữa sự sống và cái chết,một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối
của rác rưởi và mùi gây của xác ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm
đã gợi lên một không khí nặng nề,phản ánh được cuộc sống của người nông
dân lúc bấy giờ mới khó khăn,cực nhọc đến dường nào,gây xúc động cho
mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo
bo” thay gạo,chịu đói rét.

Trong khung cảnh đó,nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ
ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc
sống.Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc
bây giờ: hai con mắt gà gà,nhỏ tí,hai bên quai hàm bạnh ra,bộ mặt thì
thô kệch,thân hình thì “vập vạp”,cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười
hềnh hệch”,”cái đầu trọc nhẵn”,”cái lưng to rộng như lưng gấu”,và cái
áo nâu tàng vắt ở một bên tay,một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã
hội đói nghèo .Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém phần hoang dã như
thế: cành dong rấp cổng,tấm phên rấp che nhà,mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ
dại,mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư,loại người lúc bấy giờ bị coi
khinh,ruồng bỏ,một thứ cỏ rác hương thôn.Và Kim Luân đã dùng sáng tạo
nghệ thuật của mình,gây ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu truyện
:”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy,một buổi chiều người trong
xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.”Một người đàn bà đã
bước vào cuộc sống của Tràng.

Tràng có vợ.Người như Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như
con gấu hoặc gốc cây xù xì,trần trụi ấy,lại trong một cuộc đời đang bị
đẩy sát tới cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế
kia,mà lại nhặt được “thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc.Tràng có vợ một
cách hiển hách,oanh liệt,cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ
buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh,mà “cô nàng” đã vội vã theo
không.Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một thời thảm hại. Nhưng đó
không phải là một chuyện cổ tích hay theo một mô tuýp chàng ngốc gặp
tiên nữ,nhưng đây lại là một sự thật não lòng.Người vợ mà được Tràng
nhặt về được trên đường đời thảm đạm cũng thuộc về một dạng người giống
như Tràng.Chân dung của chị ta cũng là một bức ký họa khác với tự
nhiên,với những đường nét tai hại cho người phụ nữ:”cái ngực gầy
lép,khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”,..gầy xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi
như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc đời
Tràng.Nhưng khéo nhất là những dòng được viết,Kim Lân cho ta nhận
thấy:cái người phụ nữ đói rách kia còn xa mới có thể coi là hiền
thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá,cái trơ của người đàn bà
lao động nghèo tài thế,sinh động đến là như thế.Kim Lân cũng rất tài
tình khi tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng không nanh nọc,trơ trẽn.Và
cũng chính cái cong cớn,sưng sỉa, đanh đá,trơ trẽn kia,nó có thể sinh
ra từ dốt nát, đói nghèo,tâm tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác,cái
xấu xa.

Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại
loại như:”Rích bố cu,hở”,”Hà,ngon!Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ
bố”,”Làm đếch gì có vợ.Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng
lên xe rồi cùng về.”. Đó là ngôn ngữ của tình duyên,hay cũng chỉ là bốn
bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng khao và người đàn bà cắm đầu ăn
liền một chập,chẳng buông một lời trò chuyện gì.Bốn bát bánh đúc trong
những ngày tháng đói kém,chúng đủ phép màu để làm hai con mắt trũng
hoáy của người phụ nữ đói rách sáng lên.Có xót xa không,khi cái đói tuy
mang lại nhiều đau khổ lại cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa
hai tâm hồn cũng nghèo khó. Điều đó,ta nhận thấy dường như không có sự
cách biệt giữa Kim Lân và người nông dân,nên ông mới có thể miêu tả
người nông dân trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy,và
những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn
và niềm thương cảm.Những trang viết về những con người “dưới đáy” thế
này thì không làm ta khinh ghét họ mà xót thương và buồn cho họ vì họ
không thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi
người gọi là con người mà chính cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để
mặc họ trong cái nghèo đói.Ở đây ,tác giả không phải nói về những nét
thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách.Ngược lại ,với
việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,lắt lay,nhà văn đã tìm ra
một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được
sống, được thương yêu và hy vọng.Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể
diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai không mấy sáng sủa và
nó cũng không bị diệt trừ.Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát,tối tăm và
chính bởi thế mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết chừng nào.

Khi “nhặt” vợ về,Tràng không phải là không biết suy nghĩ:”thóc gạo này
đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo
bồng”.Nhưng rồi anh lại tặc lưỡi:”Chậc,kệ!”.Một quyết định có vẻ rất
tầm thường với một sự việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy
giờ.Nhưng ta có thể hiều rằng,cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là
Tràng đã đánh cuộc với đời,với cái nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc
sống bình thường như mọi người. Đó là khát vọng làm người mà một kẻ thô
kệch,chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh một phen.Và
Tràng cũng đã được đền bù:”Trong một lúc,Tràng hình như quên hết những
cảnh sống ê chề,tăm tối hàng ngày,quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe
dọa từng ngày,và quên cả những tháng ngày trước mặt.Trong lòng hắn bây
giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và ngừơi đàn bà đi bên.Một cái gì mới
mẻ,lạ lắm,chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ ấy,nó ôm ấp,mơn man
khắp da thịt Tràng,tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.”Qua
đó,Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc: Khác với những
người có đầu óc bi quan thường nghi,sự đói khát,nghèo khổ không làm
giảm đi giá trị của lòng người.Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu
cũng qúy hơn tất cả,ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần
gì hơn là một miếng cơm ăn.

Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim Lân,hạnh phúc, đến
lượt nó,lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng
hạn.Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm
qua.Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa xoa mãi vai
kia,chỉ vì đi bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ,muốn buông một câu
tình tứ mà chịu không sao nói nổi.Rồi đến khi vợ hỏi,anh chàng to xác
ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ nghệch,ngây thơ:”Có một mình
tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng,cũng đúng thôi,nhưng có ai
đã từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu,cái ngẩn
ngơ,những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây
thật là hạnh phúc.Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên
người vợ nhặt,ngẫm ra cũng không ít điều xót xa,cay đắng,nhưng ít nhất
cũng là một thứ xúc động,lâng lâng,bồi hồi,biến người đàn ông thô nhám
và chai sạn thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.

Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó không chỉ là
một sự việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười,một tiếng
thở dài thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức
việc mua có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử
chỉ có vẻ lãng mạn,ga-lăng lắm lắm.Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái
hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng có.cái hãnh diện được làm một
người chồng, đuợc có một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một
chút để có lấy một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ:”Hai hào đấy,
đắt quá,có mà thôi chả cần.”,một lời nói nghe sao mà thật tội
nghiệp,nhưng trong cái tội nghiệp đó là một niềm vui không tầm
thường,bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng lúc ấy, được coi thường
đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong trẻo,qúy báu hơn đâu có thể
cho là một niềm vui hạ cấp?”

Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với
mẹ:”Kìa nhà tôi nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng
những lời thoại ít chữ,văn xuôi hết sức,những câu văn không hề cầu
kỳ,gọt giũa,mơ mộng,mà mang đậm phong cách làng quê và lại rất tình cảm
chứa đọng trong từng câu nói.Người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy,cái
người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy
là chỉ nhặt được,chưa trải qua cưới hỏi,chưa gặp mặt qua một lần,chưa
được mẹ chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng
của Tràng gọi nghe thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn
hoi,rành rọt trước mẹ Tràng,người đàn bà ấy và chính Tràng,một sự thật
hiển nhiên:”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”.Tuy sự xác nhận ấy có chút
nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được một cuộc sống của con người bình
thường:”Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn
lạ lùng.Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái
nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng..Bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người.” Đó cũng là những ao ước của những người nông dân luôn mong có
được một gia đình hạnh phúc.Giống như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm
cùng tên của Nam Cao,từng có khát vọng cùng Thị Nở xây dựng gia đình,dù
rằng đi làm thuê mướn cho người ta,cùng nhau mỗi ngày được thưởng thức
“bát cháo hành” của vợ.Chính những cái ước mơ vô cùng giản đị như thế
đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt,và Kim Lân đã đưa
vào tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản ,tạo
nên sự đồng cảm thiết tha cho người đọc.

Nói về người vợ của Tràng,người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân
phận người phụ nữ của mình trong cảnh đói nghèo,Kim Lân đã bộc lộ vài
sự thất vọng thầm kín khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng
thở dài cố nén trong “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách
nát và rúm ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước
vào nơi ở của anh chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe “rích bố
cu”;hai con mắt thoáng tối lại khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám.và
khi trên đường “rước dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư.cái cô nàng cong cớn
và trơ trẽn hồi nào bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm
trước những sự tò mò trêu cợt thì cũng chỉ dám càu nhàu trong miệng,khẽ
đến mức ông chồng đi bên cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt
bước trên con đường về nhà chồng,cả cái dáng điệu khép nép ngồi mớm ở
mép giừơng và tiếng chào u lúng túng..tất cả những cái đó chỉ làm cho
người đàn bà gầy nhom,xám xịt và rách rưới c1o được cảm giác m2inh đã
là một nàng dâu thực sự,một bông hoa đã có chủ.Và chính Tràng cũng ngạc
nhiên trước những thay đổi của nàng ta:”Tràng nom thị hôm nay khác
lắm,rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát
chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”Cuộc đời éo le và nhận
hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu đi theo
một người đàn ông như Tràng ,xấu xí và xa lạ như để tránh sự cô đơn và
nghèo đói.Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thoát được cái
đói của cuộc đời.Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà
khác đó là tình thân,tình thương,một mái ấm gia đình,một nghĩa vụ phải
biết lo lắng cho nửa kia của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn
nói:dù đói khổ,khó khăn vất vả nhưng không thể thiếu trong cuộc sống
tình thương yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta cảm thấy được mình
vẫn là một con người bình thường như bao người khác.

Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng.Nó lửng
lơ,với những câu nói trổng không,dân dã,bình thường,nghe rất lạ lẫm đối
với những cặp vợ chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng
thoáng chốc trở thành vợ chồng,ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn
chưa hết ngượng ngùng.Và nó không chỉ thể hiện qua lời nói,mà còn qua
cái củng vào trán cùng với một tiếng “dơ”,cái cười hì hì của gã đàn
ông,và trước đó là cái lườm của chị vợ..giống như nhân vật Thị Nở của
Nam Cao:”Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm.”Nhưng đối với chị
vợ của Tràng thì đó còn là một người đàn bà đói rách đang đong đưa con
mắt để quên cái xấu,cái nghèo của mình mà nghĩ đến “tình yêu vợ
chồng”.Một cái nét đẹp, đáng quý, đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc
của đời thường,nạn nhân của xã hội nghèo khổ,nắm bắt ngay những thời cơ
để được yêu, để được biết thế nào là hạnh phúc, được hưởng thụ một lần
trong đời và để được sống như bao ngừơi khác,và nếm được hương vị của
gia đình.

Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ Tứ,mẹ
của Tràng,một nhân vật làm nổi bật cái khát khao của hai chữ “gia đình”
lúc bấy giờ.Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng,mà đó là một
con ngừơi đã một kiếp phải sống trong nỗi đau,vất vả,nuôi con khôn
lớn.Và cũng chính cái kinh nghiệm từng trải,lòng ám ảnh của một quá khứ
nặng nề với nhiều nỗi đắng cay và những băn khoăn của người làm mẹ:”Bà
lão nhớ đến ông lão,nghĩ đến đứa con gái út.Bà lão nghĩ đến cuộc đời
cực khổ dái dằng dặc của mình.Vợ chồng chúng nó lấy nhau,cuộc đời chúng
nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng bà cụ
Tứ về những nghịch cảnh éo le của việc hôn nhân, đặc biệt là một cuộc
hôn nhân “vội vã” và trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích hợp.Và
bà cụ cũng tự nghĩ rằng đó là một duyên kiếp không nên có:”Chao
ôi,người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm
nổi,những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.Còn mình thì…biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.Nhưng
sự tình đã rồi,trứơc mắt bà là ngừơi con dâu,mặt cúi xuống,”tay vân vê
tà áo đã rách bợt”.Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ
là một cơ may:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này,người ta mới
lấy đến con mình.Mà con mình mới có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là
mẹ,bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn nghe thật cảm động nhưng
có chút gì nhoi nhói,một chút tủi hờn,ai oán số phận,nén cái cảm giác
bất đắc dĩ trứơc việc đã bày ra trứơc mắt,hoà với chút rưng rưng,xao
xuyến một niềm vui.Qua đó ta càng lại thấy qúy trọng người mẹ chồng này
hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới:”Thôi thì các con đã phải
duyên phải kiếp với nhau,u cũng mừng lòng”,lột tả cái thần thái của tấm
lòng vị tha cao cả,giấu đi những giọt nứơc mắt xót thương vì sợ gây cho
người mình thương xót nhiều lo lắng:”Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí
cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ.” Đó là thứ ánh sáng mờ
trong đêm tối,một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định,một thứ không
biết lúc nào tắt,nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành
cho vợ chồng Tràng.Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng
nhất:từ cái việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai
cho kín đáo;rồi việc”khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” và những ước mơ
nghe thấy chạnh lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có ra thì rồi con cái
chúng mày về sau.”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì cao
xa,bà chỉ ao ước cho con mình,cho gia đình ,cho thế hệ con cháu mai
sau,vun vén những gì tốt đẹp nhất cho con cháu..Có ai ngờ rằng một bà
cụ đang chờ về thế giới bên kia,lại có niềm hy vọng tràn trề không bị
tàn lụi theo năm tháng và tuổi tác.

Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một
chỉnh thể nghệ thuật chung.Ta có thể thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa
vợ về nhà,cái nhìn của người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và
bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến”,:”Những khuôn mặt hốc hác u tối
của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên.Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào
cuộc sống đói khát,tăm tối ấy của họ.”,rồi sau đó là “một người thở
dài”,và sau tiếng cười rung rúc bất chợt nổi lên là sự nín lặng_nín
lặng của nỗi buồn lo.Rồi lại trong lời bà cụ nói:”Cốt làm sao chúng mày
hoà thuận là u mừng rồi.năm nay thì đói to đấy.Chúng mày lấy nhau lúc
này,u thương quá…”.Và rõ nhất là những giờ phút hạnh phúc của đôi vợ
chồng son trên cái nền âm thanh của tiếng ai hờ khóc người chết đói cứ
tỉ tê lúc to lúc nhỏ,dai dẳng tận đêm khuya.Sự đan xen tình huống
truyện ngây ngô của những ngừơi nông dân chất phác,bình thường với
những ước mơ nhỏ nhoi giữa một thế giới ,một tương lai mở nhạt, một
cuộc sống u ám, ranh giới giữa sự sống và cái chết.

Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong “ánh
nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”.Mở đầu là một anh Tràng cô đơn bước cao
bứơc thấp trên con đường khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời
đầy đói khát,nhưng kết thúc là Tràng đã có một gia đình,mọi ngừơi đang
xăm xắn quét tước,thu dọn nhà cửa cho quang qủe và cố làm cho nhau vui
trứơc một bữa ăn loãng thếch và đáng chát,và cũng có len lỏi vào đó một
nỗi tủi hờn trứơc việc phải ăn món ăn vốn không phải là của con
người,rồi lại tiếng trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết
đói,xua đoàn quạ hốt hoảng vù bay,khiến nền trời thành đen vẩn.Song lại
có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới trong
óc Tràng.Anh đã nhận thức được con đường để thoát nghèo đói là đấu
tranh,hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý tưởng đúng đắn nói riêng,và
tinh thần đấu tranh của người nông dân đang thôi th1uc họ mạnh mẽ tháot
khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng rực cháy về một tương lai sáng
sủa,một khát vọng tình yêu,hơi ấm gia đình,hoà bình và tự do.Qua đó Kim
Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của những người nông dân rũ bùn đứng dậy
sáng loà,chiến đấu vì đất nứơc,vì để thoát khỏi số phận tối tăm trứơc
mắt.Hình dáng người nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ sao vàng,lá cờ lý
tưởng cách mạng,lá cờ của niềm tin chiến thắng.Và qua đó nói lên một
niềm tin,một hy vọng tràn trề về một chiến thắng,sự thoát khỏi cuộc
sống cơ cực và hai từ “hoà bình” ,”tự do”.

Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc,mang đậm tính chất nông
thôn,cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo ,giản
dị vô cùng mà vẫn ánh lên được chất hào hoa Kinh Bắc.những tâm trạng
kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua những cử chỉ hành động một cách
tinh tế :tiếng gắt vô duyên vô cớ,một tiếng khẽ ho bình thừơng,những
bứơc chân bứơc vội ra sân,thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong
miệng…Nhưng cái đọng lại cúôi cùng là cái nhìn đời,nhìn đời đầy xót xa
và thương yêu của nhà văn,là niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả
chúng ta qua tác phẩm.Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì
chính cái cội nguồn nhân bản lưu giữ cho nâhn dân là bất diệt,và con
ngừơi không có kháo khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như
một con người, được nên ngừơ,có được mái ấm gia đình,một cuộc sống ấm
no đầy đủ,tình yêu đôi lứa,niềm hạnh phúc trong cuộc sống và tình
thương yêu giữa người với người,và để bảo vệ chính mình, để thoát khỏi
sự áp bức, đói khổ,những ngừơi nông dân trở thành lá cờ đầu cho công
cuộc bảo vệ đất nứơc.

Có thể nói,tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp
nối của những tác phẩm văn chương hiện thực phê phán như của Nam Cao,Tô
Hoài,…từ trứơc Cách mạng tháng Tám .Vẫn những mảnh đời éo le,bất
hạnh,hay gặp những mảnh đời khó khăn trong những tình huống dở khóc dở
cười,hay trong tác phẩm này,chúng ta lại thấy một cuộc sống của những
ngừơi nông dân sau Cách mạng trong cái đói nghèo của một xã hội cần
được phải cải thiện mới, đó là những người có một tâm hồn trong
sáng,tràn đầy lòng yêu thương,luôn luôn ấp ủ trong tâm hồn mình những
hy vọng, ước ao nhỏ bé ,hồn hậu.Chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về
một thời đen tối của nạn đói,qua đó ngừơi đọc đồng cảm ,xúc động cho
những số phận, những mảnh đời bất hạnh sống.Người đọc còn nhận ra điều
Kim Lân muốn gửi gắm đã nêu ở trên. Nhữnghình ảnh,chi tiết về anh Tràng
cùng chị vợ trong cuộc hôn nhân “vội vàng”,e ấp,ngại ngùng trên đường
về nhà và hình ảnh bà cụ Tứ trong hình ảnh một ngừơi mẹ,một ngừơi từng
trải ,về những băn khoăn cho con cái thật sự làm đau đớn,chạnh lòng khi
đọc đến những câu văn tha thiết,súc tích biết dường nàoBản thân tôi,
khi đọc những dòng văn mà Kim Lân viết,tôi đã có rất nhiều cảm
xúc,những cảm xúc tự hào về cha ông đã không vì nạn đói,nguy nan trứơc
mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng nên đất nứơc Việt Nam như ngày hôm nay,cảm
xúc về những ngừơi nông dân bình dị nhưng lại chất chứa bên trong những
niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua
,nhưng những hình ảnh về một thời đ1oi khổ,một thời chiến đấu của nhân
dân ta vẫn còn hiện lại trong tôi như mới đây thôi. Điều đó càng làm
tôi cảm thấy mình có trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng
đất nước mà chính những người nông dân,và ông cha ta đã gầy dựng...
Sưu tầm

Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.


1/ Nhà văn Kim Lân (sinh năm 1920), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài,
người làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân
viết không nhiều, nhưng được coi là thuộc hàng những cây bút truyện
ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông rất sành về cảnh quê,
người quê và thế giới của hương đồng gió nội này cộng với một tấm lòng
thiết tha hiếm có đã tạo nên những trang viết sâu sắc, cảm động nhất
của ông. Con người có một đời văn hóa khá dài ấy (trên năm mươi năm)
không hiểu kĩ tính thế nào mới trình làng vẻn vẹn có hai tập truyện
ngắn: Nên vợ nên chồng (1955) và Con chó xấu xí (1962). Nhưng nghệ
thuật không quen đo đếm ở số lượng. Chỉ một truyện như Vợ nhặt (rút từ
tập Con chó xấu xí) – vốn được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim
Lân – cũng có thể là niềm mơ ước của nhiều người cầm bút. Thiên truyện
có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết
Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng).
Hoà bình lập lại, do đơn đặt hàng của báo Văn nghệ, Kim Lân mới viết
lại. Riêng điều đó thôi đã thấy Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá
trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ
thuật.

2/ Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn bộc lộ một quan điểm
nhân đạo sâu sắc của mình. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì
diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn
cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống
gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai.

Không phải ngẫu nhiên. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói.

Chỉ mấy chữ “Cái đói đã tràn đến…” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho
người xứ Việt về một hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một
phần mười dân số trên đất nước này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm
hoạ ấy “tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ.

Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình
ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung
người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, nhưng đáng sợ nhất là có tới
hai lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam
Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám
như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như
những bóng ma”. Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim
Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời mà ranh giới giữa người và ma,
cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi
dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế
giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi
thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang
tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống tới
mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối
tình thật là táo bạo. Chao ôi, toàn những chuyện cười ra nước mắt: bốn
bát bánh đúc ngày đói mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm
cỗ tân hôn… Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi
hiện thực đến đáy, tạo cho thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu
nát, ảm đạm, tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã.

Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng lên một bản cáo
trạng trong Vợ nhặt , mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong
bóng tối của hoàn cảnh Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của
hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là một phép đòn
bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một
chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.

Trong văn chương người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song
nếu cái tài không đạt đến một mức nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ
ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng thiết tha của Kim Lân sở dĩ lay
động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn
truyện.
Tài dựng truyện ở đây là tài tạo nên một tình huống độc đáo. Ngay cái
nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài trả
lời phỏng vấn, Kim Lân hào hứng giải thích:”nhặt tức là nhặt nhạnh,
nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó
ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn
cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có
vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ – đúng là “nhặt” được vợ
như tôi nói trong truyện”. Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở
thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ
thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí,
dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được
vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh
ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa:
“đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ
rồi đấy ư?”. Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng
người: trạng thái chông chênh khó nói – cái gì cũng chập chờn, như có,
như không. Đây là niềm vui hay buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế
đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân
mang dáng dấp của thơ ca.

Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm
ngòi pháo. Có lửa tốt, châm đúng ngòi nhưng dây pháo có nhiều quả điếc
thì vẫn cứ xịt như thường. Cho nên tài dựng truyện, phải gắn với tài
dẫn truyện nữa mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn truyện của Kim Lân
thể hiện qua lối sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời
văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được
“bứng” ra từ chính cái chất liệu ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan
trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực tâm lí. Phải nói, tình huống
truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy
tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là hai trường hợp:
bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lí trước một tình thế
như nhau, song không ai giống ai.

Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, có ai ngờ lại là một chàng trai thực sự
hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi
ngỡ ngàng. Cơn say hạnh phúc thăng hoa trong tâm linh, khiến Tràng mất
trọng lượng, lơ lửng trong cõi ảo, cõi mơ. Ngòi bút thực của Kim Lân
từng tỉnh thế, bây giờ ngòi bút trữ tình của ông cũng sao mà say thế.
Nói đúng hơn, nhà văn phải đứng giữa cái say / tỉnh ấy mới “cảm thụ”
tới tận đáy cuộc đời, mới tạo ra được những áng “thần bút” như văn Kim
Lân trong “Vợ nhặt”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh
chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc
gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng
thế mà một người nổi tiếng như Secnưsepxki từng mơ ước: “Tôi sẵn sàng
đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn phòng nhỏ ấm áp nào
đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi tôi về bữa ăn tối”. Chàng thanh
niên nghèo khó của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui như thế:
“Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.
Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà
như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột
tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực
lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân may mắn hơn Chí Phèo
của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn trong tay Tràng.Còn Thị Nở mới chấp
chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối cướp mất. Có một chi
tiết rất đắc của Kim Lân: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn
làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật
ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột
biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của
Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại
sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy
nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy hắn
nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng
thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.

Bình luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan trọng của
Kim Lân mà nhiều người hay bỏ qua. Đó là câu kết truyện “Trong óc Tràng
vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Một câu kết như
thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện.
Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay
xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số
phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn
1930 – 1945 không nhìn thấy được. Số phận con người trong văn học hiện
thực đồng nghĩa với bế tắc. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã
đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác,
lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
Quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa
con trai, niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù
hợp với một chàng rễ trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm
lí vận động theo kiểu gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong
chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu.

Cũng như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con
trai ngỡ ngàng trước một cái đã biết, còn bà mẹ ngỡ ngàng trước một cái
dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là
một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi
hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở
trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai
thế nhỉ?” Rồi lại:”Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Trái tim người mẹ có
con trai vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho
nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút
“kịch” trong ngòi bút Kim Lân chăng? Không, nhà văn của đồng nội vốn
không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của người viết: chính là sự cùng
quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó.

Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì bà cụ Tứ, sự vận
động tâm lý phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu
nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương
lẫn lộn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “… chúng
nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Trong chữ
“chúng nó” người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong
chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống,
bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước
hoàn cảnh, khác hẳn con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng
một ước mơ tinh thần phơi phới.

Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí
triền miên day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến
bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến
nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con…, để cuối cùng dồn tụ
bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:”chúng mày lấy nhau
lúc này, u thương quá…” Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của
mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu
đó tỏa ra từ… nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – Bà lão
múc ra một bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon”này cần phải
cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc
cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về
hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi
cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn
cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn
sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và
hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ
Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng
cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.

Thành công của nhà văn là thấu hiểu và phân tích được những trạng thái
tâm lí khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết
vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo
khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm
động của tác phẩm.

3/ Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn.
Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga Nhicôlai
Oxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống
cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”. Vợ nhặt là bài
ca về tình người ở những người nghèo khổ đã “biết sống” như con người
ngay giữa thời túng đói quay quắt.

Thông điệp này đã được Kim Lân chuyển hóa thành một thiên truyện ngắn
xuất sắc với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là
ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động
và hấp dẫn.

(Sưu tầm)

Tìm hiểu truyện "Vợ nhặt" của Kim Lân


I.Tìm hiểu chung về tác phẩm

1.Xuất xứ:


Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí(1962)

Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được Kim Lân viết ngay
sau cách mạng tháng Tám 1945. Truyện được khơi nguồn cảm xúc từ nạn đói
khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói do thực dân Pháp và phát
xít Nhật gây ra.

2.Tóm tắt:

+ Tràng là một thanh niên nghèo ở xóm ngụ cư với mẹ già,làm nghề kéo xe thuê.

+ Trong nạn đói, một lần kéo thóc lên tỉnh, anh gặp một người con gái
ngồi lượm thóc ở nhà kho. Qua vài câu đưa đẩy, họ quen nhau.Thời gian
sau anh gặp lại cô gái nhưng đói rách tả tơi thảm thương. Tràng đãi cô
ta một bữa bốn bát bánh đúc và chỉ một câu nói đùa của Tràng mà cô sẵn
sàng theo anh về làm vợ.

+ Tràng đưa vợ về nhà trong sự ngỡ ngàng của dân xóm ngụ cư, cũng như
sự buồn tủi của bà cụ Tứ, mẹ Tràng. Nhưng khi hiểu ra, thương xót cho
hoàn cảnh của mình, của Tràng và cả người đàn bà ấy, bà đã vui vẻ chấp
nhận con dâu mới.

+ Đêm tân hôn của Tràng diễn ra trong không khí tái tê của nạn đói. Hôm
sau, căn nhà thay đổi hẳn dưới bàn tay quét dọn của hai người đàn bà.
Riêng Tràng, anh cảm thấy mình “nên người”, thấy gắn bó và có trách
nhiệm hơn với gia đình.

+ Bữa cơm ngày cưới có cả tiếng cười và cũng có cả sự hiện diện của nạn
đói qua niêu cháo lõng bõng và nồi “chè khoán”,miếng cám chát đắng
nhưng họ cùng hướng về cuộc sống đổi mới. Trong óc Tràng hiện lên đám
người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ phấp phới.

3. Ý nghĩa nhan đề:

Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nhặt-
là hành động đi với những thứ không ra gì, không được coi trọng, giá
trị nhỏ bé, thấp kém. Còn “vợ”- gợi ra sự trân trọng, thiêng liêng
trong tình nghĩa của con người, người vợ gắn liền với tổ ấm, hạnh phúc
cả đời người. Dựng vợ gả chồng là công việc lớn lao của cuộc đời con
người. Hai từ Vợ nhặt đi cạnh nhau gợi ra thân phận con người bị rẻ
rúng như cái rơm cái rác, có thể nhặt nhạnh ở bất kì đâu, bất kì lúc
nào.

Người nhặt được vợ ở đây là Tràng, người ta thì cưới xin hẳn hoi, còn
Tràng lại nhặt được vợ. Điều đó gợi ra sự khốn cùng của thân phận và
hoàn cảnh sống của con người.

Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn
đói năm 1945. vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc, khát vọng xây tổ ấm, sức
mạnh vươn tới cuộc sống, niềm tin của con người trong cảnh sống khốn
cùng.

4. Tình huống đặc sắc của truyện Vợ nhặt:

-Tràng là nhân vật có ngoại hình xấu, còn dở người. Lời ăn tiếng nói
của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như chính ngoại hình của anh ta. Gia
cảnh Tràng rất ái ngại. Nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy lại gặp năm đói
khủng khiếp, cái chết luôn đeo bám. Trong lúc không một ai nghĩ đến
chuyện vợ con ( kể cả Tràng), thì anh ta lại đột nhiên có vợ. Trong
hoàn cảnh đó, Tràng “nhặt được vợ” là nhặt thêm một miệng ăn, là nhặt
thêm tai học cho mình, đẩy mình gần hơn với cái chết. Vì vậy, việc
Tràng có vợ là một tình huống éo le, là một nghịch cảnh vui buồn lẫn
lộn, cười ra nước mắt.

- Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên cùng bàn tán, phán đoán rồi cùng nghĩ “
biết có nuôi nỏi nhau sống qua được cái thì này không”, cùng nín lặng.

- Bà cụ tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi
cúi đầu nín lặng với nỗi lo rất chung mà mà cũng rất riêng “ Biết chúng
nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”.

- Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình. Nhìn thị
ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ. Thậm chí sáng hôm
sau, Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.

=> Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí.

5.Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.

Giá trị hiện thực:
- Tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
- Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.
- Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả e thẹn.

Giá trị nhân đạo:
- Đề cao tình người, lòng nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc.
- Đặc biệt, sự cưu mang đùm bọc của những con người nghèo đói là sức mạnh để họ vượt lên cái chết.

Giá trị nghệ thuật:
Tình huống truyện khiến diễn biến phát triển dễ dàng và làm nổi bật
được những cảnh đời, những thân phận đồng thời nổi bật chủ đề tư tưởng
tỏc phẩm.

6.Chủ đề: Truyện qua việc xây dựng tình huống đặc biệt-Tràng
nhặt được vợ trong cơn đói kém đã thể hiện tấm lòng nhân ái, sức sống
kì diệu của con người ngay bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn hướng về sự
sống và khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình.

II. Đề bài luyện tập

Đề : Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân từ đó nêu lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Gợi ý dàn bài:

1/Mở bài:


+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

- Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn.

- Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đã có Vợ nhặt của Kim Lân.

+ Nhận xét khái quát:

- Vợ nhặt xây dựng tình huống truyện độc đáo.

- Qua tình huống truyện, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

2.Thân bài:

a. Bối cảnh xây dựng tình huống truyện.

+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.

+ Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương. Những người sống luôn bị cái chết đe dọa.

b. Trong bối cảnh ấy, Tràng, nhân vật chính của tác phẩm "nhặt" được vợ. Đó là một tình huống độc đáo

+ Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ "ế" vợ rất cao:

- Ngoại hình xấu, thô.
- Tính tình có phần không bình thường.
- Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.
- Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
- Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.

+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).

+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ
- Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.
- Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên
- Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn " ngờ ngợ".

+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí
- Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" không thèm lấy một người như Tràng.
- Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được.

c. Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói

+ Cái đói dồn đuổi con người.
+ Cái đói bóp méo cả nhân cách.
+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
+ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.

d. Giá trị nhân đạo:
+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
- Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
- Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
- Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
+ Con người huôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:
- Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.
- Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự
định thiết thực tạo niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.
- Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.

3.Kết bài:
+ Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
+ Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

1. Yêu cầu về kỹ năng :

- Học viên biết cách phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật trong
truyện (Tràng và bà cụ Tứ trong tác phẩm Vơ nhặt của Kim Lân ) để thấy
được ý đồ nghệ thuật của tác giả (Khi đói người ta không nghĩ đến con
đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi
thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về
ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn
sống, sống cho ra con người.).
- Biết làm bài nghị luận văn học, kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng,diễn
đạt tốt, biết chọn những dẫn chứng tiêu biểu để làm rõ vấn đề, không
mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ và ngữ pháp.Viết chữ cẩn thận ,rõ ràng.

2.Yêu cầu về kiến thức : Học viên có những cách cảm nhận và trình bày khác nhau, nhưng cần thấy được những ý cơ bản là:


a. Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật
của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân.
Ngay sau cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, ông viết tác phẩm Xóm ngụ cư,
nhưng bị mất bản thảo. Sau 1954, dựa theo phần cốt truyện cũ, ông viết truyện ngắn Vợ nhặt.

b. Làm rõ ý đồ nghệ thuật của nhà văn qua diễn biến tâm trạng của các nhân vật:

- Diễn biến tâm trạng của Tràng:
+ Giữa lúc nạn đói khủng khiếp… một người đàn bà mà anh mới gặp có hai
lần đã đồng ý theo không anh về làm vợ, điều này khiến Tràng lúc đầu
cũng phân vân, do dự… nhưng rồi lại tặc lưỡi một cái “Chặc kệ !”…
+ Sự kiện bất ngờ này đã làm thay đổi cuộc đời và số phận của Tràng:
Trên đường về nhà anh đã thành một người khác ( có lúc phớn phở khác
thường, có lúc lại lúng ta lúng túng… Anh quên hết những cảnh sống ê
chề… để cảm nhận hạnh phúc…). Tác giả thể hiện thật cụ thể, sinh động
niềm khát khao tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo
khổ đã vượt lên tất cả, bất chấp cái đói và cái chết…
+ Buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, anh thấy cuộc đời mình đã thay đổi
hẳn: Trong tâm trạng “êm ái lửng lơ”, anh nhận thấy “xung quanh mình có
cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ…”Anh bỗng thấy mình trưởng thành, ý
thức về bổn phận, trách nhiệm với gia đình…

- Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ:
+ Sự kiện Tràng bỗng nhiên có vợ, lúc đầu khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên… rồi sau đó buồn vui lẫn lộn…
+ Từ chỗ thương con trai mình, bà chuyển sang thương người con dâu… Bà
nghĩ đến thân phận của con, nghĩ đến bổn phận làm mẹ… Bà an ủi, động
viên con, nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này…
+ Tấm lòng của bà cụ Tứ không chỉ là tình thương con mà còn là đức tính
vị tha cao cả. Đây là vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nghèo khổ Việt Nam.

c. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: Đối thọai sinh động, hấp
dẫn; ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ
lưỡng, tạo sức gợi đáng kể; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế…


nlvh12.blogspot.com




Vợ Nhặt-Kim Lân-PT Từ A-Z.

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang
-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài
Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: -‘๑’-Teen Cộng Đồng-‘๑’- :: -‘๑’-Box Học Tập-‘๑’- :: -‘๑’-Văn-‘๑’--
Đầu trang
Giữa trang
Cuối trang
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất